Các loại danh trà nổi tiếng từ xưa đến nay
16 tháng 01 2020

Các loại danh trà nổi tiếng từ xưa đến nay

Các loại danh trà nổi tiếng từ xưa đến nay

Nước trà có mùi thơm, vị hơi đắng và chát, nhưng hậu vị đọng lại trên cổ họng vị ngọt nhẹ nhàng. Trong trà có chứa các chất caffein, theophylline và chất chống oxy hóa (antioxidant) tự nhiên. Vì vậy trà được biết tới với rất nhiều công dụng hữu ích đối với con người. Nó giúp tinh thần tỉnh táo, giảm căng thẳng, mệt mỏi…

Hiện nay có rất nhiều các loại danh trà nổi tiếng khác nhau ở Việt Nam và Trung Quốc, mỗi loại có những hương vị độc đáo riêng biệt là từ những giống trà khác nhau cho tới quá trình chế biến từng loại trà.

Trong cuốn Trà Kinh của Lục Vũ được nhiều người biết đến, những cách thức chế biến trà từ xưa mà Lục Vũ viết đã không còn được áp dụng vào hiện nay nữa. Với mỗi thời thế khác nhau, phong khác thay đổi thôi như câu châm ngôn: “Thời nào thói nấy” vậy mà. Tuy nhiên, đứng góc độ tiến hóa của trà Trung Hoa, người ta phân chia ra các hình thức trà kinh điển như dưới đây:

 Mạt trà hay trà bột: là bột trà xanh nguyên chất của Nhật Bản. Mạt trà là loại trà chính dùng trong nghi lễ trà đạo Nhật từ pha chế đến thưởng thức, có màu xanh lục và mùi thơm tự nhiên của trà.

Mạt trà hay trà bột

Mạt trà được tạo nên từ các lá trà mọc trong bóng râm, việc chế biến mạt trà bắt đầu vài tuần trước khi thu hái, lúc này các khóm trà được che chắn để tránh ánh nắng Mặt trời trực tiếp. Điều này làm chậm lại quá trình chín của lá trà, khiến cho lá trà có màu xanh thẫm hơn và tạo nên aminô axít đem lại nhiều vị ngọt cho trà. Chỉ có những búp trà tốt nhất mới được hái bằng tay. Sau đó rải lá trà thành lớp mỏng khi phơi, chúng sẽ bị vụn ra theo cách nào đó và trở thành “niễn trà” (tencha). Tencha có thể được rút sợi, cắt cuống và rải đá nghiền để tạo ra một thứ bột mịn, màu xanh lá tươi, đây chính là bột mạt trà

Hương vị của mạt trà chủ yếu là do hàm lượng aminô axít. Loại mạt trà chất lượng tốt nhất có độ ngọt cao hơn và hương vị mạnh hơn các loại mạt trà chất lượng thông thường hoặc các loại cấp thấp khác được thu hái muộn hơn trong năm.

– Đoàn trà hay trà bánh: là loại trà đã được ép lại thành bánh. Phương pháp chế biến đoàn trà này có từ thời nhà Minh, để cho quá trình vận chuyển được dễ dàng hơn. Sau khi thu hái lá trà xong, chúng sẽ được đem đi xay ra hoặc để nguyên rồi đem hấp chín. Sau đó cho vào khuôn ép thành từng bánh (có lò sản xuất ép khuôn mang dấu hiệu riêng của mình). Nếu lá trà xay thành bột, người ta hồ trộn thêm một chút bột gạo rồi mới ép. Cuối cùng đem sấy cho khô. Trà bánh là nguyên liệu cho nhiều loại thức uống như trà sữa của Mông Cổ và trà bơ của Tây tạng…. Vào thời Thế Chiến Thứ hai trà bánh được dùng thay tiền để trao đổi thương mại tại vùng Tây Bá Lợi Á.

– Yêm trà còn gọi là tiển trà hay trà ngâm: là loại trà thông dụng hiện nay. Nguồn gốc của Loại trà này là do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (trị vì 1368-1399) cấm làm trà bánh và trà bột. Từ đó tiển trà mới bắt đầu được sử dụng phổ biến. Sự ra đời loại trà này đã góp phần tạo lên sự phát triển ngành gốm sứ phục vụ việc thưởng trà cho tới tận ngày nay. Đó là những lá trà phơi sấy khô, có thể ướp hương hay không, hãm với nước nóng mà dùng.

Hiện nay có rất nhiều chủng loại trà khác nhau và mỗi chủng loại lại có nhiều danh trà khác nhau. Ngày nay, mọi người thường biết đến thập đại danh trà Trung Hoa (dĩ nhiên không chính thức ) là: Trà Long Tỉnh Tây Hồ của Hàng Châu, Bích Loa Xuân của Giang Tây, Trà Thiết Quan Âm của Phúc Kiến, Hoàng Sơn Mao Phong của An Huy, Quân Sơn Ngân Châm của An Huy, Kỳ Môn Hồng Trà của An Huy, Trà đại hồng bào của Phúc Kiến, Lục An Qua Phiến của An Huy, Tín Dương Mao Tiêm của Hà Nam, và Đô Vân Mao Tiêm của Quỳ Châu.

Bình luận đã đóng